Nam trung tạp ngâm
Bài 25 (001NTTN)
Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành
鳳凰路上早行 | Phượng Hoàng (1) lộ thượng tảo hành |
征夫懷往路 | Chinh phu hoài vãng lộ (2) |
夜色尙蒙蒙 | Dạ sắc thượng mông mông |
月落猿聲外 | Nguyệt lạc viên thanh ngoại |
人行虎跡中 | Nhân hành hổ tích trung |
力衰常畏露 | Lực suy thường úy lộ (3) |
髮短不禁風 | Phát đoản bất cấm phong |
野宿逢樵者 | Dã túc phùng tiều giả |
相憐不在同 | Tương liên bất tại đồng (4) |
Dịch nghĩa: Sáng sớm đi trên đường núi Phượng Hoàng
Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăng lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau
Dịch thơ: Trên đường Phượng Hoàng
Người đi nhớ con đường
Lờ mờ trong đêm trường
Trăng lặn ngoài tiếng vượn
Người bước trong chân hùm
Tóc ngắn không ngại gió
Sức yếu sợ móc sương
Đêm gặp người đốn củi
Khác nhau mà vẫn thương.
Đỗ Đình Tuân
(dịch thơ)
Chú thích:
(1) Phượng Hoàng: Từ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng. Năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du đương làm Tri phủ Thường Tín thì bị bệnh, xin từ chức. Về quê nghỉ được hơn một tháng lại có chỉ gọi vào Kinh. Bài này làm trên đường lai kinh và mở đầu cho tập Nam Trung Tạp Ngâm.
(2) Vãng lộ: Con đường sắp đi qua.
(3) Úy lộ: Chữ 露 "lộ" ở đây là sương móc. Có chỗ chép chữ 路"lộ" là đường. Chép như thế không đúng, vì ở câu đầu đã nói đến 往路"vãng lộ" rồi.
(4) Bất tại đồng: Thường thường thì "đồng bệnh tương liên". Nhưng đối với trường hợp này thì không đồng cảnh ngộ, không đồng tâm sự, nhưng vẫn thương nhau.
16/5/2014
Đỗ Đình Tuân