THANH HIÊN THI TẬP
Bài 1: Quỳnh Hải Nguyên tiêu
瓊海元宵 | Quỳnh Hải nguyên tiêu |
元夜空庭月滿天 | Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên |
依依不改舊嬋娟 | Y y bất cải cựu thiền quyên |
一天春興誰家落 | Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc |
萬里瓊州此夜圓 | Vạn lý quỳnh châu thử dạ viên |
鴻嶺無家兄弟散 | Hồng lĩnh vô gia hunh đệ tán |
白頭多恨歲時遷 | Bạch đầu đa hận tuế thời thiên |
窮途憐汝遙相見 | Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến |
海角天涯三十年 | Hải giác thiên nhai tam thập niên |
Dịch nghĩa:
Đêm rằm tháng giêng ở Quỳnh Hải
Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng đầy trời
Vẻ đẹp của thiền quyên y cũ không chút thay đổi
Một trời xuân hứng không biết rơi vào nhà ai
Muôn dặm Quỳnh Châu đêm nay (trăng) tròn
Chốn Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan tác
Đầu bạc nhiều giận ngày tháng đổi dời
Đường cùng thương mày từ xa thấy nhau
Nơi góc biển chân trời (tuổi) đà ba chục năm.
Một trời xuân hứng không biết rơi vào nhà ai
Muôn dặm Quỳnh Châu đêm nay (trăng) tròn
Chốn Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan tác
Đầu bạc nhiều giận ngày tháng đổi dời
Đường cùng thương mày từ xa thấy nhau
Nơi góc biển chân trời (tuổi) đà ba chục năm.
Dịch thơ:
Đầy trời trăng sáng sân không
Như xưa trăng vẫn gương trong một mầu
Một trời xuân hứng rơi đâu
Đêm nay trăng rọi Quỳnh Châu khắp miền
Không nhà thất tán anh em
Bạc đầu lắm hận bao phen đổi dời
Cùng đường lại gặp trăng chơi
Chân trời góc biển ba mươi tuổi tròn.
Đỗ Đình Tuân
(dịch thơ)
Chú thích:
(1) Quỳnh Hải, Quỳnh Châu: Huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du.
Sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du về lánh nạn ở Quỳnh Côi.
(2) Thiền quyên: Dáng đẹp đẽ dễ thương. Nói chung về người lẫn vật, nhưng tục quen dùng để nói riêng về phụ nữ. Ở đây chỉ mặt trăng.
(3) Hồng Lĩnh: Núi ở Nghệ Tĩnh. Nguyễn Du chính quán Hà Tĩnh. Người anh khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh âm mưu kết nghĩa chống lại nhà Tây Sơn, bị bắt không
chịu phục, nên bị giết. Dinh cơ của họ Nguyễn cùng nhà cửa của đồng bào theo Nguyễn Quýnh đều bị phá hủy. Anh em Nguyễn Du chạy lánh nạn mỗi người mỗi nơi.
(4) Tam thập niên: Câu này có người cắt nghĩa là: "Ở nơi góc bể chân trời ba
chục năm". Giải nghĩa như thế e sai, vì Nguyễn Du lúc chạy đến Quỳnh Côi
lánh nạn, tuổi mới trên đôi mươi (sanh năm 1765, đậu tam trường năm 1784,
chạy giặc năm 1786). Và lênh đênh nơi quê vợ chỉ trên dưới mười năm. Như vậy phải
giải nghĩa là "tuổi ba mươi" mới đúng.
Sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du về lánh nạn ở Quỳnh Côi.
(2) Thiền quyên: Dáng đẹp đẽ dễ thương. Nói chung về người lẫn vật, nhưng tục quen dùng để nói riêng về phụ nữ. Ở đây chỉ mặt trăng.
(3) Hồng Lĩnh: Núi ở Nghệ Tĩnh. Nguyễn Du chính quán Hà Tĩnh. Người anh khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh âm mưu kết nghĩa chống lại nhà Tây Sơn, bị bắt không
chịu phục, nên bị giết. Dinh cơ của họ Nguyễn cùng nhà cửa của đồng bào theo Nguyễn Quýnh đều bị phá hủy. Anh em Nguyễn Du chạy lánh nạn mỗi người mỗi nơi.
(4) Tam thập niên: Câu này có người cắt nghĩa là: "Ở nơi góc bể chân trời ba
chục năm". Giải nghĩa như thế e sai, vì Nguyễn Du lúc chạy đến Quỳnh Côi
lánh nạn, tuổi mới trên đôi mươi (sanh năm 1765, đậu tam trường năm 1784,
chạy giặc năm 1786). Và lênh đênh nơi quê vợ chỉ trên dưới mười năm. Như vậy phải
giải nghĩa là "tuổi ba mươi" mới đúng.
8/4/2014
Đỗ Đình Tuân