旅殯哭 内 | Lữ thấn khốc nội (1) |
相期偕老老無緣 | Tương kỳ giai lão lão vô duyên |
一別逾年便百年 | Nhất biệt du niên tiện bách niên |
召爾魂兮來此些 | Triệu nhĩ hồn hề lai thử tá |
曰予慟矣為谁憐 | Viết dư đỗng hĩ vị thùy liên |
鄁鄘而下風斯變 | Bội Dung nhi hạ phong tư biến (2) |
秦漢之間禮則然 | Tần Hán chi gian lễ tắc nhiên (3) |
聞訃不勝衰病久 | Văn phó bất thăng suy bệnh cửu |
旅墳青草已芊芊 | Lữ phần thanh thảo dĩ thiên thiên |
Dịch nghĩa: Khóc vợ chôn nơi đất khách
Hẹn cùng nhau sống đến già, già lại vô duyên
Xa nhau hơn một năm mà thành trăm năm
Chiêu hồn bà về có về đây chăng?
Ta khóc nức nở đây đau xót vì ai?
Từ Bội Phong, Dung phong trở xuống
Quốc phong đã biến
Giữa nhà Tần, nhà Hán lễ giáo thế thôi
Đau yếu đã lâu nghe tin buồn khôn xiết
Nầm mồ đất khách cỏ đã xanh rì.
Dịch thơ :
Hẹn nhau chung sống đến già
Vô duyên bà đã vội xa cách trùng
Chiêu hồn bà có về không
Để tôi nức nở đau lòng vì ai
Sau Dung Phong lễ khác rồi
Giữa Tần Hán cũng vậy thôi hơn gì
Nghe tin khôn xiết não nề
Nấm mồ đất khách cỏ rì rì xanh.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ
Ghi chú:
(1): Nguyễn Khuyễn có 4 vợ: Bà cả được 3 con là: Nguyễn Hoan, Nguyễn Thuần và Nguyễn Thị Duy; Bà thứ được 3 con là: Nguyễn Lộc, Nguyễn Đôn và Nguyễn Thị Búp; Bà ba lấy kế sau khi hai bà trên đã mất, sinh một con là Nguyễn Khắc. Bà thứ tư mất sớm không con. Ở đây chưa rõ tác giả khóc bà nào. Riêng Đỗ Đình Tuân thì phỏng đoán đây là bài thơ khóc bà tư “chết sớm, không con” lại hình như không được sống cùng tác giả. Đây là bà vợ thiệt thòi nhất nên ông dễ động lòng thương hơn.
(2):Bội và Dung là hai nước chư hầu đời nhà Chu. Kinh Thi chép: đọc đến Bội phong, Dung phong thì thấy Quốc phong đã một lần thay đổi.
(3):Nhà Tần đốt sách, chôn học trò, phản đối lễ giáo nhà nho. Đến đời nhà Hán, lễ giáo nhà nho vẫn chưa hồi phục được như trước thời Tần. Cho nên giữa Tần và Hán lễ giáo chưa rõ ràng.
Sao Đỏ 21/3/2014